DẠY VĂN - HỌC VĂN 1: BA BÀI THƠ NỔI TIẾNG CỦA BỘ BA THI TƯỚNG TRIỀU TRẦN - ĐÀO THÁI SƠN
BA BÀI THƠ NỔI TIẾNG CỦA BỘ BA THI TƯỚNG
TRIỀU TRẦN
Triều Trần là một điều đại độc lập tự chủ, phát triển,
hưng thịnh về mọi mặt như quân sự , kinh tế, xã hội, giáo
dục và đặc biệt là văn hóa nghệ thuật. Các nhà trí thức của thời đại đã tạo ra cục
diện Tam giáo đồng nguyên, cân bằng sự ảnh hưởng của Phật
giáo - Nho giáo - Đạo giáo và cộng hưởng chiến công ba lần đại phá
quân Nguyên – Mông đã làm cho nền văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, tầm
vóc con người trở nên kỳ vĩ. Đội ngũ sáng tác thời kỳ này chủ yếu là các bậc
hoàng đế, các nhà sư, các văn sỹ yêu nước…nhưng điểm đáng lưu ý và được truyền
tụng nhiều nhất là các bài thơ bày tỏ chí khí, tầm nhìn chiến lược, hay nỗi
lòng sầu hận trước hoàn cảnh đất nước…của các vị danh tướng đương thời. Trong
bài viết này, chúng tôi xin lần lượt trình bày về ba bài thơ nổi tiếng của bộ
ba thi tướng Trần Quang Khải ( Tụng giá hoàn kinh sư) , Phạm Ngũ
Lão ( Thuật hoài) và Đặng Dung ( Cảm hoài). Cả ba tác giả tác phẩm
này đều được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông.
I. TRẦN QUANG KHẢI - NGHÌN THU NON NƯỚC
Trần Quang Khải ( 1241 – 1294), là con thứ ba của Trần
Thái Tông – Trần Cảnh. Từ nhỏ, ông đã được Thái Tông phong tước Chiêu Minh
Vương và cho thụ giáo với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám
tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng
nói của các bộ tộc ít người. Ông giữ chức Thượng tướng, từng lãnh đạo quân đội
nhà Trần hai lần đại phá quân Nguyên – Mông. Ngoài ra ông còn là một nhà ngoại
giao, một thi sỹ nổi tiếng với tập Lạc đạo, nhưng đã bị thất truyền.
Cho đến ngày nay bài thơ của ông được nhiều người yêu thích là Tụng
giá hoàn kinh sư.
Đoạt
sáo Chương Dương độ
Cầm
Hồ Hàm Tử quan
Thái
bình tu trí lực
Vạn
cổ thử giang san
Phò
giá về kinh
Chương
Dương cướp giáo giặc,
Hàm
Tử bắt quân thù.
Thái
bình nên gắng sức,
Non
nước ấy ngàn thu
( bản dịch
của Trần Trọng Kim)
Tụng
giá hoàn kinh sư thuộc loại thơ
tức sự, tức là nhân có việc mà làm ra. Sự ở đây là nhân việc phò hai vua Trần
Cảnh và Trần Hoảng về kinh đô. Đầu tháng 6 năm 1285, quân và dân nhà Trần giải
phóng kinh đô Thăng Long. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để trốn về phương
Bắc, còn Toa Đô thì từ Thanh Hóa chạy ra Thiên Trường, bị quân ta bắt chặt đầu.
Ngày 9 tháng 7 năm 1285 cả triều đình ca khúc khải hoàn trở về Thăng Long. Bài Tụng
giá hoàn kinh sư ra đời trong hoàn cảnh này.
Mở đầu bài thơ là âm vang chiến thắng tưng bừng của
quân dân nhà Trần.
Chương
Dương cướp giáo giặc,
Hàm
Tử bắt quân thù.
Chương Dương và Hàm Tử là hai địa danh lịch sử nổi
tiếng. Nhưng qua thời gian dâu bể nay không còn biết chính xác ở chỗ nào. Từ “ cướp giáo” ở đây được sử dụng theo lối
hoán dụ, có nghĩa là tước đoạt vũ khí của giặc, vô hiệu hoán sức mạnh của
chúng, biến chúng thành những kẻ chiến bại. Hình ảnh “ Cầm Hồ” tức là bắt sống giặc Nguyên – Mông. Vì người Trung Quốc gọi
các dân tộc phía bắc của mình là Hồ. Hai hình ảnh được khắc họa song song trong
mười chữ cô đúc nhưng đủ sức nói lên khí phách anh hùng của quân và dân ta. Ta
thấy con người ở đây thể hiện tầm vóc kỳ vĩ, đoạt vũ khí của giặc như lấy đồ
trên tay trẻ con, bắt giặc như bắt con gà con vịt. Điều đó thể hiện rõ ý chí
một lòng đánh giặc cứu nước của quân dân nhà Trần.
Nhưng bài thơ lại chuyển hướng đột ngột, tạo ra một
viễn cảnh khác ở hai câu thơ cuối.
Thái
bình nên gắng sức,
Non
nước ấy ngàn thu
Người dũng tướng là người đủ sức dẹp
giặc đem lại bình yên cho đất nước, là người không được thỏa mãn với những
chiến công của mình tạo ra. Người dũng tướng là người có tầm nhìn xa trông
rộng, biết tính kế sách lâu dài cho đất nước. Cụm từ “ tu trí lực” nói lên điều đó. Lúc thanh bình không phải là lúc hưởng
thụ, ăn chơi mà là lúc phải rèn luyện hơn nhiều, dốc sức xây dựng đất nước,
tăng cường sức mạnh của quân dân trên mọi mặt thì đất nước mới vững bền được.
Đó là cái tâm của kẻ sỹ, là chí hướng của bậc thiện tri thức.
Bằng chứng là tháng 8 – 1285, Khu Mật
Viện của nhà Nguyên ráo riết lên kế hoạch quyết phục thù và xâm lược Đại Việt
thêm một lần nữa. Nhưng vì tướng A Lý Hải Nha bị bệnh chết vào tháng 7 -1286
nên Hốt Tất Liệt mới hoãn binh, đến năm 1287 thì chúng tiến hành xâm lược nước
ta lần thứ ba và để đến tháng 4 – 1288 thì chúng phải chịu đại bại thêm một lần
nữa.
Tụng giá hoàn kinh sư không những
thể hiện niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc mà còn thể hiện tầm nhìn
chiến lược, niềm tin mãnh liệt vào nhân dân, nhìn thấu dã tâm của quân giặc.
Bài thơ ngắn nhưng ý sâu xa, nó xứng đáng là bài học muôn đời cho con cháu noi
theo.
II. PHẠM NGŨ LÃO – LÒNG CÒN VƯƠNG NỢ
Phạm Ngũ Lão ( 1255 – 1320) người làng
Phù Ủng, Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Trước đây ông vốn là môn khách, sau được Trần
Hưng Đạo gả con gái nuôi cho. Ông là một danh tướng lập được nhiều chiến công
hạng mã trong công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông và mở mang bờ cõi
phía Nam,
từng được phong Điện soái thượng tướng quân. Là văn võ toàn tài, nhưng tác phẩm
của ông để lại hầu như chỉ còn bài Thuật hoài viết bằng chữ Hán.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
Tạm
dịch: Cầm ngang ngọn giáo giữ giang sơn
đã trải qua mấy thu/ Khí thế ba quân nuốt cả sao Ngưu sao Đẩu trên trời / Người
nam nhi chưa trả xong món nợ công danh / Luống thẹn khi nghe kể chuyện về Gia
Các Lượng.
Mở đầu bài thơ tác giả vẽ lên một hình ảnh con người với
tư thế hiên ngang, kiêu dũng “ Cầm ngang
ngọn giáo” đứng giữa đất trời. Hình ảnh ấy với một tầm vóc vững chãi, gợi
lên hình ảnh của con người khổng lồ mang tầm cỡ của vũ trụ bao la. Con người ấy
xuất hiện ngay giữa hoàn cảnh sông núi có giặc xâm lăng. Nó bền bỉ như một tượng
đài của vị hùng tướng trải qua mưa nắng bao thu để giữ gìn cương thổ và bảo vệ
Tổ quốc. Và phía dưới của bức tượng khổng lồ ấy là hình ảnh của quân đội, binh
sỹ với khí thế không gì ngăn nổi “ Tam
quân tì hổ khí thôn ngưu”. Tam quân
là từ chỉ chung cho quân đội thời xưa, tì
hổ là hình ảnh ẩn dụ, ngầm so sánh sức mạnh của quân đội như loài mãnh thú.
Để làm tăng thêm sức mạnh ấy, tác giả đã sử dụng thành ngữ “ Khí thôn Ngưu Đẩu”, ý nói khí thế có thể
nuốt cả sao Khiên Ngưu và sao Bắc Đẩu, tức là khí thế của quân đội có thể át cả
trời sao.
Nếu hai câu đầu thiên về miêu tả thì hai câu sau thiên
về luận “ Công danh nam tử còn vương nợ /
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”. Đó là ý thức nghĩa vụ, phụng sự quốc
gia của tác giả. Hai chữ “ công danh”
ở đây hoàn toàn không phải theo quan niệm của nhà nho là học hành đỗ đạt rồi ra
làm quan mà là công lao, chiến công nơi trận mạc, đem lại hòa bình cho đất
nước. Hai chữ công danh tác giả sử dụng
gắn liền với hình ảnh Gia Cát Lượng. Như ta đã biết chế độ khoa cử của Trung
Quốc có từ đời Đường, Gia Cát Lượng sống vào đời Hán thì dính líu gì đến việc
đỗ đạt. Vậy ý nghĩa của hai chữ công danh ở đây thuần túy là do có công lao mà
trở nên nổi tiếng. Nhưng điểm đặc biệt ở quan niệm công danh của tác giả là
luôn gắn với “ Nợ”, mà nợ là “ trái”, nhưng trái từ “ trách” mà ra. Tức là người nam nhi phải
có trách nhiệm, trọng trách, lập công báo quốc thì mới xứng đáng để lưu danh.
Nhưng tại sao Phạm Ngũ Lão lại lấy Gia Cát Lượng làm
mẫu mực cho công danh đời mình ? Ta biết rằng Gia Cát Lượng là người có tài
năng xuất chúng và rất nổi tiếng trong Tam
quốc diễn nghĩa. Ông là người một mực trung thành với nhà Thục Hán, khi Lưu
Hoàng Thúc – Lưu Bị sắp chết thì đem đất nước giao phó cho ông, vì cái ơn sâu
nghĩa dày đó mà ông sáu lần cất binh đánh Ngụy. Ông mất năm 54 tuổi, cả một đời
dành trọn tâm huyết cho nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão là tướng nhà Trần và ông cho
rằng mình chỉ mới “ cầm ngang ngọn giáo
trải mấy thu”, chưa lập được công danh như Gia Cát Lượng nên lấy làm thẹn
là vậy. Câu thơ vừa mang hùng khí nhưng cũng vừa khiêm tốn, nhưng cái nghĩa lý
sâu xa của tác giả gửi gắm trong đó là còn muốn được lập công danh báo quốc
suốt đời, sẵn sàng hiến cả đời mình cho nhà Trần như Gia Cát Lượng cả đời hiến
cho nhà Thục Hán.
Một điểm cần lưu ý nữa là Gia Cát Lượng là người xuất
thân từ áo vải, nhưng lại được Lưu Bị ba lần thỉnh cầu và đối đãi một cách hết
sức chân tình. Phạm Ngũ Lão cũng chỉ là môn khách của Trần Hưng Đạo, ông không
phải xuất thân từ giới quý tộc nhà Trần, nhưng lại được Trần Hưng Đạo coi
trọng, nhận làm con rể, đề đạt tước phẩm cao…cái ơn này cũng không hề nhỏ. Cho
nên ông nói “ Luống thẹn tai nghe chuyện
Vũ Hầu” là muốn nói bản thân mình chưa đền đáp cái ân tri ngộ của chủ tướng
cũng như của nhà Trần vậy.
Bài thơ chỉ có 28 chữ nhưng làm toát lên được hình ảnh
hùng tráng, chí khí ngất lời của một mãnh tướng. Một con người không tự mãn,
luôn có lý tưởng cao đẹp. sẵn sàng hiến thân vì nước. Nó xứng đáng là tấm gương
sáng cho các thế hệ thanh niên đời sau nối tiếp noi theo.
III. ĐẶNG DUNG – ANH HÙNG UỐNG HẬN
Nếu ở hai bài Tụng giá hoàn kinh sư của
Trần Quang Khải và Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là ý chí, lý tưởng của người anh
hùng trong chiến thắng, thì Cảm hoài của Đặng Dung là nỗi niềm
tâm sự của người anh hùng thời chiến bại. Đặng Dung (1373 - 1414), là nhà thơ và
là danh tướng nhà Hậu
Trần. Ông là con trai của Đặng Tất, người theo phò vua Giản Định đế của nhà
Hậu Trần, sau bị Giản Định đế giết chết cùng với tướng Nguyễn Cảnh Chân. Giận
vì cha mình chết oan, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị rời đi, lập Trần Quý Khoáng
đổi niên hiệu là Trùng Quang tiếp tục khởi nghĩa. Khi tướng nhà Minh là Trương
Phụ đến đánh, ông đã nhiều phen chiến đấu, có lần tập kích thuyền của Trương
Phụ với ý định bắt sống, nhưng vì trời tối không biết mặt nên hắn trốn thoát.
Về sau Đặng Dung lại bị chính Trương Phụ bắt đưa về Trung Quốc, dọc đường ông
đã nhảy sông tự vẫn. Bài Thuật hoài của ông được người đời
sau truyền tụng.
Thế
sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Tạm
dịch: Việc đời dằng dặc mà ta thì đã già,
biết phải làm sao?/ Trời đất mênh mông chìm đắm trong cuộc ca./ Khi gặp thời,
người làm nghề đồ tể, kẻ đi câu cá cũng dễ thành công / Lúc sa cơ lỡ vận thì
bậc anh hùng đành phải nuốt nhiều nỗi hận / Giúp chúa, những mong xoay trục đất
lại / Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống / Thù nước chưa trả được
mà mái tóc đã bạc rồi / Bao phen mang gươm Long Tuyền mài dưới bóng trăng.
Cảm
hoài là một loại nhan đề ta thường thấy các nhà thơ xưa hay dùng, nó có
nghĩa là cảm xúc, hoài bão. Nếu như Thuật
hoài là bày tỏ nỗi lòng ý chí thì Cảm
hoài thiên về oán hận, bi thương. Đặng Dung là người một lòng tận tụy phục
vụ sự nghiệp phục hưng của nhà Trần, nhưng tiếc thay vận nước đã suy tàn, cơ đồ
sụp đổ, không còn khả năng xoay chuyển nữa. Cảm hoài là bài thơ giãi
bày tâm sự đau buồn đó của một vị tướng quân hết lòng yêu nước.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ lên một
thế bi kịch của kiếp người. Việc đời mờ mịt không biết đâu là viễn cảnh phía
trước mà riêng ta thì đã già. Bi kịch ấy là một câu hỏi không lời đáp, là một
sự bất lực vì cục diện cũng như vì sức tàn lực kiệt. Trong khi đó thì “ Trời đất vô cùng một cuộc say”, vũ trụ
đắm chìm theo quy luật của cuộc xoay vần, chẳng quan tâm gì đến chuyện thế
thái, lòng người. Chính vì vậy mà làm cho lòng người thêm cô đơn và con người
thêm cô độc, làm cho bi kịch càng nặng nề hơn. Hai câu thơ đầu đã nói lên được
cái chủ đề của toàn bài thơ : con người chí khí không gặp thời.
Hai câu thực là mối quan hệ giữa con
người và thời thế “ Thời lai đồ điếu
thành công dị / Vận khứ anh hùng ẩm hận đa”. Khi gặp thời thì kẻ hàng thịt,
người câu cá cũng lập được công danh. Hai chữ “ đồ điếu” ở đây ám chỉ Phàn
Khoái và Hàn Tín. Phàn Khoái người đời nhà Hán, lúc còn trẻ làm nghề bán thịt
chó, về sau theo Lưu Bang đánh Tần, ông đã bảo vệ Hán Cao Tổ ở Hồng Môn. Hàn
Tín thuở hàn vi đi câu cá để mưu sinh, sau giúp Hán Cao Tổ tạo nên nghiệp đế.
Đó là những con người gặp thời. Còn bậc anh hùng mà không gặp thời thì cũng
đành “ uống hận”. Vận khứ - tức là
thời vận đã hết, ẩm hận – là ôm hận mà không cách nào nói lên được, một hình
ảnh biểu trưng cho sự cay đắng của người anh hùng. Ý này được lấy từ bài Hận
phú của Giang Yêm, một nhà văn thời Nam Bắc Triều “ từ xưa đến nay ai cũng đều chết cả, không ai là không uống hận mà im
tiếng”.
Hai câu luận là hai câu thơ tuyệt hay
nhưng cũng rất khó hiểu “ Trí chủ hữu
hoài phù địa trục / Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”. Trí chủ - là báo đền ơn
vua, phù địa trục – là nâng đỡ trục đất, ý nói muốn đáp đền ơn vua bằng cách
phù trợ giang sơn đang bị nghiêng đổ. Tẩy binh – có nghĩa là rửa binh khí, mà
cũng có nghĩa là xuất binh gặp mưa. Ý này lấy từ tích Vũ Vương xuất binh đánh
Trụ Vương thì gặp trời mưa, có người cho việc không có lợi, nhưng Vũ Vương nói
“ Trời giúp ta rửa binh khí, có thể xuất
chinh”. Một ý khác, tẩy binh cũng có nghĩa là rửa binh khi để cất đi, có nghĩa
là dẹp yên giặc giã, đất nước thanh bình. Nhưng hoàn cảnh ở đây là Đặng Dung
đang xuất binh đánh quân Minh tham bạo, không phải là lúc rửa binh khí đem cất,
điều này còn nói rõ ở câu thơ cuối “ Mấy
độ mài gương dưới trăng tà”. Cho nên ý nghĩa cụ thể của câu thơ thứ 6 là
không có cách nào kéo sông Ngân Hà xuống để rửa binh khí làm cuộc xuất chinh
đánh giặc. Đó là tâm sự bất lực của người anh hùng Đặng Dung.
Hai câu thơ cuối có sức ám ảnh nhất “ Quốc thù vị báo đầu tiên bạch / Kỷ độ Long
Tuyền đái nguyệt ma”. Long Tuyền là tên một thanh bảo kiếm, tương truyền ở
nước Sở xưa kia có suối Long Tuyền, lấy nước trui kiếm vô cùng sắc bén…Nhưng
nếu gươm đã sắc bén như vậy rồi thì tại sao tác giả còn phải mài, mà lại mài
vào ban đêm ? Điều đó chứng tỏ rằng ý chí chiến đấu chưa bao giờ dừng lại, lòng
mong muốn báo đền ơn vua nợ nước không phút nào nguôi, cho dù đầu đã bạc, vận
đã qua. Đó chính là cái chí đơn độc, âm thầm và cái chí ấy muốn cải mệnh để
thay đổi thời cuộc.
Đọc toàn bài thơ ta có cảm giác ám ảnh
đến kỳ lạ. Nó luôn gieo vào lòng người cảm hứng sầu hận, thiết tha, sâu sắc. Cảm hoài của Đặng Dung có một vị trí
xứng đáng trong văn học yêu nước chống ngoại xâm của kỷ nguyên nhà Trần nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung.
ĐÀO THÁI SƠN