image banner
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
DẠY VĂN - HỌC VĂN 3: LANG THANG CHỮ NGHĨA TRUYỆN KIỀU - ĐÀO THÁI SƠN

LANG THANG CHỮ NGHĨA TRUYỆN KIỀU

 

 

1. HAI CHỮ “ TƯỜNG ĐÔNG”

 

Truyện Kiều là tác phẩm văn học Trung đại được trích giảng nhiều nhất trong nhà trường phổ thông. Các phần trích giảng đều được giới thiệu, phân tích khá rõ ràng và cặn kẽ về nội dung lẫn nghệ thuật giúp người học tiếp cận một cách tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên bên cạnh việc tìm hiểu giá trị văn bản thì còn một số ngữ liệu chưa được chú thích, lý giải một cách thỏa đáng, nhất là các ngữ liệu thuộc về Hán Nôm. Trong bài viết này, tôi xin đặt lại vấn đề hai chữ “ Tường đông” ở đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều” ở SGK Ngữ văn 9, tập 1.

 

Trong SGK Ngữ văn 9, tập 1 hiện hành do Giáo sư Nguyễn Khắc Phi chủ biên thì phần văn bản trích “ Chị em Thúy Kiều” ở trang 81 không giải thích hai chữ “ Tường đông” mà chỉ giải thích hai chữ “ Ong bướm” là “ chỉ tình yêu nhưng có phần không đứng đắn”. Không hiểu lý do gì các nhà làm SGK lại tách “ Tường đông” ra khỏi “ Ong bướm” trong câu Kiều thứ 38 “ Tường đông ong bướm đi về mặc ai” này và lại không giải thích nó. Có lẽ các tác giả SGK cho rằng hai chữ “ Tường đông” mang cái nghĩa quá hiển nhiên dễ hiểu, không phải dạng từ khó nên không cần phải chú thích ! Cũng là SGK, nhưng xưa hơn một tí, Văn học 9, tập 1, do Giáo sư Đỗ Bình Trị chủ biên năm 2002, ở trang 77 – 79 thì có giải thích “ Tường đông” như sau:

 

Tường đông có nguồn gốc từ sách Mạnh Tử “ du đông gia tường nhi lâu kì xử tử” có nghĩa là “ trèo tường nhà hàng xóm phía đông mà dỗ con gái nhà người ta”. Hoặc từ bài phú của Tống Ngọc : “ Thiên hạ chi giai nhân, mạc nhược Sở quốc / Sở quốc chi lệ giả, mạc nhược thần lý / Thần lý chi mỹ giả, mạc nhược thần đông gia chi tử”, có nghĩa là “ Người đẹp trong thiên hạ không đâu bằng nước Sở / Người đẹp trong nước Sở không đâu bằng gần làng của thần / Người đẹp trong làng không ai bằng cô gái láng giềng phía đông nhà thần”…Có thể nói việc các tác giả SGK chú thích như vậy là chủ yếu dựa vào các nhà Kiều học trước đó. Vì trong các bản Truyện Kiều được lưu hành như bản của Bùi Kỷ, Lê Văn Hòe, Nguyễn Thạch Giang và Nguyễn Khắc Bảo cũng đều chú thích tương tự như vậy cả.

 

Các cách giải thích trên có thể nói là cách góp nhặt ngữ liệu một cách khá ngẫu nhiên, vì xét về ý nghĩa nó hoàn toàn không phù hợp. Câu Kiều 38 “ Tường đông ong bướm đi về mặc ai” đã miêu tả khá cụ thể “ tường đông ong bướm” tức là ong bướm ở phía Đông, còn nhà của chị em Thúy Kiều lại ở phía Tây chứ không phải ở phía Đông, vậy dựa theo câu nói của Mạnh Tử hay Tống Ngọc mà chú thích thì hoàn toàn không chính xác, không liên quan gì đến câu Kiều 38 cả. Nếu đẽo chân cho vừa giày thì Nguyễn Du phải sửa lại “ Tường Tây ong bướm đi về mặc ai” mới phải lẽ !

 

Chúng ta biết rằng, hai chữ “ Tường đông” phải hiểu theo tín hiệu thẩm mỹ về vũ trụ quan của người phương Đông xưa. Vì trong văn hóa phương Đông nói chung hay trong Phong thủy học nói riêng thì hướng Đông là hướng của mặt trời mọc, là nơi ấm áp, là cơ sở để vạn vật sinh trưởng. Hướng Đông “ chủ về sinh” thuộc dương và dùng để chỉ nam giới. Vậy “ Tường đông ong bướm” là chỗ đám con trai lai vãng. Chị em Thúy Kiều là thục nữ khuê môn, tuy đã đến tuổi cập kê nhưng vẫn chưa có ý trung nhân, chuyện bỡn cợt ong bướm hai nàng vẫn bỏ ngoài tai. Bởi thế Nguyễn Du đã dùng liên Kiều 37-38 “ Êm đềm trướng rủ màn che / Tường đông ong bướm đi về mặc ai”  để tiểu kết lại phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều một cách tài tình là như vậy.

 

Ngoài câu Kiều 38, ta còn thấy hai chữ “ Tường đông” còn xuất hiện ở ba chỗ khác trong truyện có khi trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi Thúy Kiều bắt đầu phải lòng Kim trọng thì Nguyễn Du mượn cảnh để tả tình.

 

Hải đường lả ngọn đông lân

Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà

( câu 175 -176)

 

Đông lân là xóm bên phía đông. Cây hải đường lả ngọn sang phía đông là ám chỉ Kiều đã phải lòng chàng trai bên hàng xóm phía ấy. Còn khi Kim Trọng thuê được nhà trọ thì Nguyễn Du viết:

 

Song hồ nửa khép cánh mây

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông

( câu 283 – 284)

 

 Câu này chỉ Kim Trọng nhà ở phía đông ngày ngày ghé mắt trông ngóng nàng Kiều nhà ở phía Tây. Hoặc khi Kiều hẹn với Sở Khanh đến để giải cứu nàng thì chàng họ Sở này cũng đi vào từ phía “ Tường đông” .

 

Tường đông lay động bóng cành

Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào

( Câu 1093-1094)

 

Vậy tóm lại hướng đông là hướng của con trai, của nam giới chứ hoàn toàn không có nghĩa là “ trèo tường nhà hàng xóm phía đông mà dỗ con gái nhà người ta” hay “Người đẹp trong làng không ai bằng cô gái láng giềng phía đông nhà thần” như các nhà chú giải trên đã nói. Chính vì hướng Đông “ chủ về sinh” thuộc nam – dương, nên hướng Tây mới “ chủ về tử” thuộc về nữ - âm. Nên khi Đạm Tiên báo mộng cho Kiều, Nguyễn Du viết.

 

Hàn gia ở mái tây thiên

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu

( câu 195-196)

 

Theo Từ điển Hán Việt từ nguyên của Bửu Kế thì “ Tây thiên” : tây, hướng tây – thiên, đường trong bãi tha ma. Đường trong bãi tha ma, nằm về hướng tây.” Vậy cõi của Đạm Tiên vừa là cõi chết vừa là cõi của nữ giới…Khi Thúy Kiều tiễn Kim Trọng  về Liêu Dương hộ tang thúc phụ thì nàng cũng đứng tựa hiên tây.

 

Nàng còn đứng tựa hiên tây

Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ

( câu 569-570)

 

Hoặc khi Kiều rút dao tự tử trong lầu xanh, thì mọi người cũng vực cứu nàng cũng vào chốn hiên tây.

 

Vực nàng vào chốn hiên tây

Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men

( câu 991- 992)

 

Nói chung hướng tây là hướng của đàn bà con gái. Còn hướng đông là thuộc phái nam. Điều này trong văn hóa phương Đông xưa coi như một ước lệ thẩm mỹ theo vũ trụ quan không có gì bàn cãi. Tường đông nó cũng như bao ngữ liệu văn học khác, mang âm hưởng nhẹ nhàng, kết hợp với các từ khác tạo nên vẻ thanh cao tú lệ của tính cách nhân vật chị em Thúy Kiều. Tường đông còn được xem như là một tín hiệu thẩm mỹ học, một chuẩn của thi pháp thể loại thơ Nôm của văn học Trung đại, miêu tả cảnh tình của thế giới cái đẹp trong thi ca.

 

2. VIN CÀNH QUÝT

 

Trong Truyện Kiều từ câu 827 đến câu 834, Nguyễn Du viết như sau:

 

Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
Hẳn ba trăm lượng kém đâu
Cũng đã vừa vốn còn sau thì lời
Miếng ngon kề đến tận nơi
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham
Ðào tiên đã bén tay phàm 
Thì vin cành quít cho cam sự đời

 

Nội dung của đoạn thơ trên là nói lên sự tính toán “ nước trước bẻ hoa” của tên họ Mã. Vốn Mã Giám Sinh và mụ Tú Bà là vợ chồng, chúng kết hợp với nhau đi tìm mua gái đẹp đem về lầu xanh để rước khách kiếm lời. Họ Mã đến Bắc Kinh mua được Kiều, nhưng hắn không hề nói ra tất gia đình họ Vương vì sợ không chịu bán Kiều, nên Mã giả làm lễ nghinh hôn như người lấy Kiều làm vợ thực. Khi hắn đem Kiều về Lâm Tri, lúc trọ lại dọc đường, Kiều đinh ninh mình là vợ của hắn. Trước Mã còn e dè, sợ rằng nếu làm Kiều mất trinh thì mụ Tú Bà không thể dung tha. Nhưng sau rồi trước một người đẹp như Kiều, hắn không thể đè nén được nữa nên tính toán như trên…Thật ra đoạn thơ trên cũng không có gì khó hiểu trừ câu 833 và 334. Chính vì vậy mà những nhà Kiều học lại chú giải rất khác nhau.

 

            Bản của Bùi Khánh Diễn thì dẫn câu thơ "Vịnh quít" của Lương văn Ðế, hai câu là:

Phan chi chiết phiếu cán
Cam chỉ nhược huỳnh tương

           

Nghĩa là: "Vin cành quýt, bẻ cành nhỏ có quả ngon ngọt như nước ngọc quỳnh"

 

            Bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì dẫn 2 câu thơ của Tô Ðông Pha:

 

Lão nhân du hí như đồng tử
Bất chiếc mai chi chiết quất chi

 

            Nghĩa là: " Người già mà chơi như trẻ con, không bẻ cành mai mà bẻ cành quít", ý nói người già mà không đứng đắn. Còn Hồ Ðắc Hàm thì cho chữ "quít" là "cụp xuống", nghĩa là "vịn cho cành đào ngã quít xuống". Nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì cho rằng “ lẽ ra phải vin cành đào mới đúng, nhưng vì vị trí của chữ phải chữ vần trắc mói được, cho nên Nguyễn Du dùng tạm chữ “quýt” vần trăc thế vào, mà sau thì không đổi được nữa”.

 

Nhìn chung các cách viện dẫn thơ chữ Hán của các nhà Kiều học như trên đều là khiên cưỡng, vì nó không hề dính dáng gì đến câu thơ Truyện Kiều mà Nguyễn Du đã viết. Còn cách hiểu của Tản Đà nếu nhìn sơ qua thì cũng có lí  về mặt bằng trắc, nhưng cũng hoàn toàn chưa giải thích được nghĩa của câu Kiều !

 

Thật ra, điều thứ nhất chúng ta nên hiểu “đào tiên” đây là một hình thức ẩn dụ chỉ người tiên, người đẹp và đó cũng là biểu tượng mà hai cô tiên trong núi Thiên Thai đã tặng cho Lưu Thần và Nguyễn Triệu.  Nhưng khi âm mưu về vấn đề này thì họ Mã không nói thẳng ra là hái đào, mà cố ý nói trệch như thế để cốt ý che đậy hành vi của hắn ! Điều thứ hai là khi nói “ vin cành quýt cho cam sự đời” cũng là ý nhấn mạnh, tô đậm hơn việc che đậy hành vi vụng trộm của họ Mã, nhưng thực chất thì bản chất của hành vi đó thì vẫn như vậy. Vin cành quýt có nghĩa là vin bẻ cành quýt, ý chỉ “nước trước bẻ hoa”. Nghĩa của bẻ quýt thì cũng như bẻ đào, nhưng cái độc đáo ở đây  quýt lại chơi chữ với chữ “cam”, vì quýt cùng họ với cam. Mà cam cũng có nghĩa là cam lòng, sự thỏa mãn dục vọng. Mặt khác, cam lại đồng nghĩa với cam là ngọt, tức là hưởng trước cái hương vị ngọt ngào rồi sau thì sẽ tính sau. Nguyễn Du cố ý chơi chữ từ quýt đến cam, và “ cho cam sự đời” là cho sướng cái sự đời vậy…Cái hay của câu Kiều 834 này là lột tả được sự đắc ý, sự  ranh mảnh của tên lưu manh họ  Mã như đã nói ở trên. Tóm lại việc chơi chữ của Nguyễn Du trong hai câu Kiều 833 - 834 là do xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật để biểu hiện tính cách nhân vật chứ không gì khác.

 

Việc chú giải chữ nghĩa của văn học Trung đại nói chung và Truyện Kiều nói riêng không phải lúc nào cũng viện dẫn thi từ cổ Trung Quốc là đúng, mà cần phải xem xét và lý giải cái dụng ý nghệ thuật của tác giả mới là việc nên làm. Vì hình thức không đơn thuần là hình thức mà hình thức bao giờ cũng chứa đựng nội dung.

 

3. HAI CHỮ “ TÍCH VIỆT”

 

Theo Hồi thứ IX - Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, sau khi Kiều gửi thư cầu cứu cho Sở Khanh thì hôm sau nàng nhận được lời phúc đáp, nhưng khi mở ra xem thì chỉ vỏn vẹn có hai chữ “ Tích Việt”. Cụ thể như sau: “ Nàng vội vàng nhận lấy phong thư rồi quay lên lầu vội mở ra coi, chỉ thấy vẻn vẹn hai chữ Tích Việt nàng lật đi lật lại chẳng hiểu ý nghĩa ra sao ? Rồi suy nghĩ mất đến nửa giờ, mới chợt ngộ ra rằng: Phải rồi, phải rồi. Chàng hẹn ta đến ngày 21 giờ Tuất, sẽ vượt qua tường để họp mặt. Vậy nay là 21, vào quãng xế chiều tất nhiên chàng lại, ta thử chờ xem sao?” ( Bản dịch của Tô Nam – Nguyễn Đình Diệm).

 

Còn Nguyễn Du thì gói gọn trong bốn câu ( 1087-1090):

 

Mở xem một bức tiên mai

Rành rành Tích Việt có hai chữ đề

Lấy trong ý tứ mà suy

Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng ?

 

Về hai chữ “ Tích Việt - 昔 越”, Phạm Đan Quế chú thích: “ Chữ Tích theo lối chiếc tự : chấp gồm chữ nhị thập là 20 ở trên, chữ nhất là 1 ở giữa, chữ nhật là ngày ở dưới tức là ngày 21. Chữ Việt gồm chữ tẩu là chạy, hợp với chữ tuất là giờ Tuất, tức là giờ Tuất thì chạy trốn”( Truyện Kiều Đối Chiếu). Bùi Khánh Diễn thì: “ Tích Việt – dĩ chiết tự pháp phân hoạch thị trấp nhất nhật tuất tẩu dã, có nghĩa là chữ Tích Việt lấy phép chiết tự chia nét mà xem là ngày hai mươi mốt chạy lúc giờ tuất”. Còn Bùi Kỷ lại giảng hơi khác một chút: “ xem trong tiểu thuyết thì chữ Tích Việt cắt nghĩa là: Trấp nhất nhật tuất thì việt tường tương kiến, ngày 21 giờ tuất, trèo qua tường sang với nhau, chứ không phải là : trấp nhất nhật tuất thì tẩu, ngày 21 giờ tuất thì trốn. Vì lúc bấy giờ Kiều mới gặp Sở Khanh, sau cách hai ngày nữa Sở Khanh mới rủ Kiều đi”.

 

Về chữ “ Tích - ” – theo cách chiết tự thành “ trấp – nhất – nhật ; 廾 一日” thì không có gì phải bàn cải. Nhưng chữ “Việt - ” mà chiết tự thành “ tẩu” và “tuất” thì rõ ràng có vấn đề. Vì chữ “ Việt - ” là hợp thành bởi hai chữ “ tẩu - ” và “ việt -” ( một loại búa rìu thời xưa) chứ hoàn toàn không phải là “ tẩu - ” và “ tuất - ”. Còn nếu “ tẩu + tuất” thì phải là chữ “ Huấn” – chữ này ít xuất hiện, thậm chí trong các bộ từ điển của Thiều Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng…hay các bộ từ điển tầm cỡ như Từ Nguyên, Từ Hải cũng không có ghi… Cụ thể là chữ "tẩu" cạnh chữ "tuất", thì lại là một chữ khác, âm đọc " hứa duật, huân nhập thanh", tức là chữ "huấn", và cũng có nghĩa là "chạy". Khang Hy Từ Điển còn cho biết thêm : “ Huấn – dữ việt bất đồng” có nghĩa là chữ “huấn” không phải là chữ “ việt ”…Tựu trung có thể nói vì hai chữ “ việt - ” và “ tuất - ” tự dạng khá giống nhau nên mới xảy ra chuyện tác đánh tộ, ngộ đánh quá của các nhà Kiều học ở trên đã chú giải mà thôi.

 

Nhưng vấn đề này ta thấy cả Kiều và Nguyễn Du đều không hề nhầm lẫn. Vì Kiều nhận được thư của Sở Khanh, nàng đã đoán chữ “ việt” chắc hàm ý là chữ “ tuất”, chính vì vậy mà Nguyễn Du mới dùng hai chữ “ phải chăng” để ngầm phỏng đoán trong câu Kiều 1090:

 

Lấy trong ý tứ mà suy

Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng ?”

 

Một vấn đề nữa cũng cần nói thêm nếu Sở Khanh hẹn Kiều trốn đi vào giờ Tuất ( 19 giờ đến 21 giờ) ngày 21 âm lịch thì làm gì có trăng ? Vậy tại sao lúc ấy Nguyễn Du lại tả trong câu 1091 – 1092 là:

 

                   Chim hôm thoi thót về rừng

Giá trà my đã ngậm trăng nửa vành

 

Thư từ là vậy, nhưng thực tế lại là một chuyện khác. Theo nguyên truyện thì : “ Nhưng rồi hôm ấy, giữa lúc hoàng hôn, bỗng thấy Tú bà đem rượu và các món nhắm lên để cùng Thúy Kiều chén thù chén tạc, và nói chuyện gẫu tới canh khuya mới thôi khiến nàng vô cùng hoảng hốt. Sau khi đưa chân Tú bà ra khỏi thì vội đóng ngay cửa lại rồi leo lên lầu, mở cánh cửa ra coi, đã thấy có cái đầu thang bắt ngay vào phía cửa trước…đồng thời đã thấy một bóng người đương lần bậc thang leo lên rồi vịn chấn song cửa sổ nhảy vào…”. Rõ ràng ngay hôm ấy Sở Khanh đã đến trễ vào tận lúc khuya chứ không phải là giờ Tuất như đã hẹn. Và khi đến nơi thì hắn cũng không rủ Kiều đi trốn, mà tìm cách cùng nàng chăn gối : “ Vừa nói chàng lại nhích lại bên nàng rồi lại nói tiếp: - Đáng yêu thay cái đêm tốt đẹp, ta đã cùng nhau gặp gỡ, nhẽ nào để nó trôi qua. Huống chi ta đang định kế để giải thoát nàng, nhẽ đâu nàng không có chút gì để tạ ơn trước? Thúy Kiều đáp: - Đã đành rằng thế, nhưng tấm thân này còn sống, xin hãy đợi ngày khác lo gì. Sở Khanh rằng: - Hôm nay công việc tiến hành buổi mới, ví không có sự hoàn hảo, chỉ e bất lợi cho việc sau này. Thúy Kiều lúc ấy cũng muốn cố kết lòng chàng, để chàng tận tâm cứu vớt, vả lại nàng tự xét thấy: Thân này trót đã, còn đâu như lúc ngày xưa? Nên cũng tỏ lòng ưng thuận: - Mong chàng ra tay cứu vớt, đâu dám tiếc sự gối chăn, miễn sau thủy chung như một, đừng để thiếp phải mang hận, ngâm khúc bạch đầu…”( Tô Nam- Nguyễn Đình Diệm, dịch).

 

Ngày hôm sau nữa Sở Khanh mới đến và rủ Kiều cùng đi trốn, Kiều thấy mưu kế ấy thật là việc mạo hiểm nhưng vì nàng đã trót trao thân cho y thì đành phó thác, từ chối cũng không thể. Vấn đề này Nguyễn Du đã nói một cách hết sức tế nhị trong câu 1013 -1016:

 

Nghe lời nàng đã sinh nghi

Song đà quá đỗi quản gì được thân

Cũng liều nhắm mắt đưa chân

Mà xem con tạo xoay vần đến đâu

 

Và họ ra đi: “ Lúc ấy đương tuần tháng chín, thuộc tiết sương giáng cuối thu, người thấy lạnh buốt, trăng cũng lu mờ” ( Tô Nam – Nguyễn Đình Diệm, dịch). Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng viết những câu áo não:

 

Đêm thu khắc lậu canh tàn

Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương

Lối mòn cỏ lợt màu sương

Lòng quê đi một bước đường một xa

( câu 1121 - câu1124)

 

          Qua những nội dung đã nói ở trên, ta thấy mục đích của Sở Khanh là lập mưu đưa nàng đi trốn nhưng thực tế lại là tìm cách ân ái chăn gối với nàng, sau đó thông đồng với bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh bắt lại nàng, hành hạ nàng để ép nàng phải tiếp khách cho bằng được. Chính vì lẽ đó mà hai chữ “ Tích Việt” trong thư đã đánh lận con đen ngay từ lúc ban đầu. Bản thân nó mù mờ, thật giả khó phân, cũng như “ việt” làm thì sao bắt “ tuất” chịu trách nhiệm được ! Trong Truyện Kiều có rất nhiều tiên ảnh ( hình ảnh phía trước) để đoán cho sự việc phía sau, trước một biến cố của cuộc đời nhân vật bao giờ cũng có những dự báo ngầm trước. Hai chữ “ Tích Việt” không những lừa người đi trước mà còn che mắt người đi sau ! Các nhà Kiều học có công chiết tự “ Tích Việt” nhưng vô tình lại không phát hiện sự nhầm lẫn trong đó. Và sự nhầm lẫn đó lại là một điều thú vị cho việc giải mã tính dự báo cho tình huống truyện. Vì thư đề ngày 21 giờ Tuất, nhưng Sở Khanh đã đến Lầu Ngưng Bích vào lúc “ nửa đêm” trăng đã lên. Và lần Sở Khanh đưa Kiều đi trốn hai ngày sau đó cũng vào lúc “ nửa đêm” trăng mờ gần sáng. Chính vì vậy mới xẩy ra cảnh thương tâm.

 

Thịt da ai cũng là người

Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau

( Câu 1137 – 1138)

 

Và còn gì tủi nhục hơn với thân phận Kiều:

 

Thân lươn bao quản lấm đầu

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa

( Câu 1147 – 1148)

 

4. TỪ “ MÀY NGÀI” ĐẾN “ GƯƠM ĐÀN”

 

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác giả ít nhất đã dùng đến 5 lần cụm từ “mày ngài” hay “nét ngài” để miêu tả các nhân vật cả nam lẫn nữ và 1 lần dùng cụm từ “ gươm đàn” để miêu tả Từ Hải. Các cụm từ này gây tranh cãi không ít giữa các nhà Kiều học và có nhiều ý khiến trái chiều nhau.

 

Trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều của tác giả Trần Đình Sử do NXB Giáo dục ấn hành năm 2001, phần Điển cố trong Truyện Kiều, trang 298 có đoạn: “ Dùng điển miêu tả chân dung thể hiện trong chân dung Từ Hải: Râu hùm hàm én mày ngài / Vai năm tấc rộng thân mười thước cao. “ Râu hùm hàm én” có phần dùng điển về Ban Siêu có tướng mạo làm hầu vạn dặm là “ hàm én đầu hùm” ( Ban Siêu Đông quan Hán kỷ). Trong sách Hậu Hán thư – Ban Siêu liệt truyện lại ghi tướng mạo đó là “ hàm én cổ hùm”, chỉ người có tước hầu vạn dặm, nói chung là chỉ tướng mạo phi thường, nhất định sẽ được hiển quý ( xem Cổ đại thi từ điển cố từ điển, Thiên Tân xuất bản 1992, tr 506). Ở đây Nguyễn Du sửa thành “râu hùm” cho giống với tướng đấng “tu mi”, hẳn cũng để chỉ tướng người phi thường, hiển quý. Nhưng sao lại là “mày ngài”, một nét lông mày của phụ nữ mà không phải mày tằm nằm như Quan Công? Theo cách giải thích của Cao Xuân Hạo thì Từ Hải từng là người đi học – “ Trước vốn theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khoa” ( xem Thanh Tâm Tài Nhân) -  cho nên nét “ mày ngài” làm cho chàng có dáng thư sinh “ bạch diện tú mi” ( mặt trắng mày đẹp). Chi tiết này ứng với chi tiết “ gươm đàn” gây tranh cãi. Thật ra Nguyễn Du không dịch nguyên hai chữ “cung kiếm” trong câu thơ Hoàng Sào mà thay vào hai chữ “ cầm kiếm” ( gươm đàn) vốn là hai vật tùy thân của văn nhân xưa, để gợi phong thái văn nhân của nhân vật ( xem Hán ngữ đại từ điển, tr.2395)”. Qua đoạn trích trên chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề như sau:

 

Thứ nhất, khi miêu tả chân dung Từ Hải, Nguyễn Du không dùng điển Ban Siêu  mà dùng điển Quan Công và Trương Phi trong Tam Quốc chí để khắc họa, cho nên không có chuyện “Nguyễn Du sửa thành “râu hùm” cho giống với tướng đấng “tu mi””. Theo Hồi thứ I, Tam Quốc Chí của La Quán Trung thì Quan Vân Trường có tướng mạo “ Thân trường cửu xích, nhiêm trường nhị xích, diện như trùng tảo, thần nhược đồ chi, đan phụng nhãn, ngọa tàm my, tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm” ( Mình dài chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai trái táo chấp lại đỏ như gấc, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt). Ở đây ta thấy Nguyễn Du miêu tả Từ Hải có đôi lông mày giống Quan Công. Còn Trương Phi thì “ Thân trường bát xích, báo đầu hoàn nhãn, yến hạm hổ tu, thanh nhược cự lôi, thế như bôn mã” ( Mình cao tám thước, đầu báo mắt tròn, hàm én râu hùm, bước đi như cọp, chuyển mình như ngựa chạy). Vậy chỗ này Từ Hải giống Trương Phi ở “ râu hùm hàm én”. Tóm lại, Nguyễn Du miêu tả Từ Hải có hai đặc điểm giống hai nhân vật chính của Tam Quốc Chí chứ không hề giống Ban Siêu đời Hán là vậy. Cho nên không thể có chuyện “ đầu hùm, cổ hùm” đổi ra “ râu hùm” được.

 

Thứ hai là hai chữ “ mày ngài” trong chân dung Từ Hải không phải là lấy đôi lông mày phụ nữ đắp lên để có dáng vẻ thư sinh ! Vì Từ Hải có “ râu hùm hàm én” và “ Vai năm tấc rộng thân mười thước cao” thì thử hỏi tướng mạo ấy có nét thư sinh ở chỗ nào ! Và như chúng ta đã biết, trong Truyện Kiều, cụm từ “ nét ngài – mày ngài” dùng để chỉ đôi lông mày xuất hiện khá nhiều lần với các nhân vật khác nhau.

 

“Nét ngài” trong câu thơ phác họa chân dung Thúy Vân: Vân xem trang trọng khác vời  / Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Trong lời Tú Bà bày cho Thúy Kiều giở những ngón nghề thay đổi nét mặt thật linh động để cầm chân khách làng chơi: Khi khóe hạnh khi nét ngài / Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa” . Còn “mày ngài” lại được nhà thơ dùng trong mấy câu thơ vẽ dung mạo Từ Hải, và dùng đến hai lần. Lần thứ nhất, khi Từ mới xuất hiện trước mặt Thúy Kiều: Râu hùm, hàm én, mày ngài / Vai năm tấc rộng thân mười thước cao” và lần thứ hai, sau khi Từ đã đánh Đông dẹp Bắc trở về gặp lại nàng Kiều: “Rỡ mình lạ vẻ cân đai / Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”. Và “ mày ngài” còn được dùng cho những người phụ nữ trong ngôi lầu xanh của Tú Bà khi Thúy Kiều vừa đặt chân vào: Bên thì mấy ả mày ngài / Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi”. Điều này cho ta một khẳng định là cụm từ “ nét ngài” chủ yếu dành cho phụ nữ, còn “ mày ngài” là dành cho cả nam lẫn nữ trong miêu tả chân dung.  Nhưng tại sao Nguyễn Du dùng “ nét ngài” cho phụ nữ ? Vì nếu nói đến “ nét” thì phải nói đến vẽ, vì có vẽ thì mới có đường nét. Vốn phụ nữ xưa thường cạo đi đôi lông mày rồi sau đó dùng phấn vẽ lại cho mềm mại, cong dài và thanh tú. Nên nói đến nét ngài là ta dễ hình dung đến đôi lông mày của phụ nữ được vẽ vậy. Bên cạnh đó, “ nét ngài” còn được hiểu là đôi lông mày mịn và cong như râu con bướm ngài vậy. Nếu ai đã sống ở những vùng trồng dâu nuôi tằm tất sẽ biết khi con ngài vừa ra khỏi kén, nhất là con cái, trên hai mắt có hai chiếc râu cong dài, đẹp như lông mày phụ nữ. Chính vì cái tinh tế đó mà hai chữ “ nét ngài” phải hiểu là lông mày như râu con ngài. Nhưng trong tiếng Việt con ngài có hai nghĩa, nghĩa đầu tiên là con bướm tằm do con nhộng trưởng thành cắn kén chui ra. Con bướm tằm có hai loại đực và cái, sẽ giao phối với nhau đẻ ra trứng, trứng ấy lại nở ra thành con tằm. Vì ngài là một chặng trong quá trình sinh trưởng của giống tằm nên người ta cũng quen miệng gọi con tằm là con ngài. Vậy “ mày ngài” của Từ Hải chính là mày tằm, loại mày này gọi là “ ngọa tàm my” tức là mày tằm nằm, chính loại mày này mới phù hợp với kẻ “ Chọc trời khuấy nước ở đời”, chứ lẽ nào một tay giang hồ vùng vẫy như Từ Hải lại mang đôi lông mày pha nét thư sinh ? Vấn đề nghiên cứu văn học cổ không nên quá đóng khung vào thư tịch xưa mà phải còn quan sát thực tế, qua trải nghiệm với cuộc đời thực mới thấu hiểu hết cái tinh diệu của nó. Cũng là “ mày ngài” nhưng miêu tả mấy ả thì đó là “ râu ngài” chứ không phải là “ tằm nằm”. Và cũng từ đó nhưng đi với chân dung anh hùng thì hẳn phải là “ ngọa tàm” chứ không thể là “ râu ngài” được. Trong mỗi con chữ nó còn có cái bóng của nó – nghĩa bóng của chữ là ở chỗ đó mà ra.

 

Thứ ba, hai chữ “ gươm đàn” trong câu Kiều “ Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” không thể là “ kiếm và cây đàn khảy được”. Cách lý giải “Thật ra Nguyễn Du không dịch nguyên hai chữ “cung kiếm” trong câu thơ Hoàng Sào mà thay vào hai chữ “ cầm kiếm” ( gươm đàn) vốn là hai vật tùy thân của văn nhân xưa, để gợi phong thái văn nhân của nhân vật” là không thuyết phục.

 

Câu thơ của Hoàng Sào:

 

 “ Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng

Nhất trạo giang sơn tận địa duy”

 

( chỉ nửa vai cung kiếm mà đi khắp cả vùng trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông)

 

Ta thấy ở đây trong câu Kiều của Nguyễn Du hai chữ “ gươm đàn” tương đương với “ cung kiếm” và hai chữ “ non sông” tương đương với “ giang sơn” của Hoàng Sào. Bên cạnh đó, câu Kiều này còn có một cặp tiểu đối rất chuẩn “ gươm đàn nừa gánh // non sông một chèo”. Chữ “ đàn” ở đây không thể là cây đàn khảy ( nhạc cụ) được mà “ đàn” [] lại là một loại vũ khí như cây cung nhưng không bắn bằng tên mà bắn bằng đạn tròn. Theo Hán Việt từ điển của Thiều Chửu  thì là “ cái cung bắn đạn”, Trần Văn Chánh là “ bắn ra ( bằng dây cung bắn đạn)…Nếu xét trong nội bộ câu Kiều “ Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” thì “ gươm”  là “kiếm” và “đàn” là “cung” cả hai từ này có cùng một trường nghĩa là vũ khí, nó đối với “ non” và “sông” trong trường nghĩa là “đất nước”. Hai cụm từ này đối rất chuẩn với nhau, còn nếu cây kiếm và cây đàn ( nhạc cụ) kết hợp lại sẽ không nằm chung trường nghĩa này, tất sẽ đối không chuẩn với vế bên kia. Mà Từ Hải là người nuôi ý chí “ Làm vua một cõi, rạch đôi sơn hà” nếu không dùng vũ khí để chiến đấu mà có được, không lẽ dùng cây đàn khảy mà chiếm được giang sơn hay sao ? Cho nên cách nói “hai chữ “ cầm kiếm” ( gươm đàn) vốn là hai vật tùy thân của văn nhân xưa, để gợi phong thái văn nhân của nhân vật” là cách nói không mấy gì thuyết phục và nó không logic trong việc miêu tả nhân vật người anh hùng Từ Hải.

 

Nói tóm lại vấn đề cách giải thích chữ nghĩa Truyện Kiều của Trần Đình Sử và Cao Xuân Hạo ở phần trích trên là chưa thật hợp lý. Cụ thể chân dung Từ Hải không mang nét của Ban Siêu mà mang hai đặc điểm trên khuôn mặt của Quan Vân Trường và Trương Phi trong Tam Quốc chí. Đôi lông mày của chàng là “ mày tằm nằm”, là đôi lông mày của tướng quân, chứ không thuộc “ bạch diện tú mi” của thư sinh như các vị đã giảng. Còn cụm từ “ gươm đàn” thì phải là kiếm cung chứ không là kiếm và đàn ( nhạc cụ) được, vì nó không hợp với câu thơ dung chứa nó. Khảo sát văn chương cổ, tra cứu thư tịch cổ là chuyện tất yếu, nhưng nếu bỏ qua cái tinh vi của quan sát cuộc sống thực tế mà cứ khư khư soi vào điển cố thì không thể tránh khỏi sai lầm.

 

“ Lạ gì cái chuyện văn chương

một câu một chữ khôn lường chiều sâu”

 

…..chính là như vậy.

 

 

ĐÀO THÁI SƠN