DẠY VĂN - HỌC VĂN 5 : HAI CHỮ “ TÍCH VIỆT” TRONG TRUYỆN KIỀU - ĐÀO THÁI SƠN
HAI CHỮ “
TÍCH VIỆT” TRONG TRUYỆN KIỀU
Theo Hồi thứ IX - Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân, sau khi Kiều gửi thư cầu cứu cho Sở Khanh thì hôm sau nàng nhận được
lời phúc đáp, nhưng khi mở ra xem thì chỉ vỏn vẹn có hai chữ “ Tích Việt”. Cụ
thể như sau: “ Nàng vội vàng nhận lấy
phong thư rồi quay lên lầu vội mở ra coi, chỉ thấy vẻn vẹn hai chữ Tích Việt
nàng lật đi lật lại chẳng hiểu ý nghĩa ra sao ? Rồi suy nghĩ mất đến nửa giờ,
mới chợt ngộ ra rằng: Phải rồi, phải rồi. Chàng hẹn ta đến ngày 21 giờ Tuất, sẽ
vượt qua tường để họp mặt. Vậy nay là 21, vào quãng xế chiều tất nhiên chàng
lại, ta thử chờ xem sao?” ( Bản dịch của Tô Nam – Nguyễn Đình Diệm).
Còn Nguyễn Du thì gói gọn trong bốn câu ( 1087-1090):
Mở
xem một bức tiên mai
Rành
rành Tích Việt có hai chữ đề
Lấy
trong ý tứ mà suy
Ngày
hai mươi mốt tuất thì phải chăng ?
Về hai chữ “ Tích
Việt - 昔 越”,
Phạm Đan Quế chú thích: “ Chữ Tích theo lối chiếc tự : chấp gồm chữ nhị thập là 20 ở trên, chữ nhất
là 1 ở giữa, chữ nhật là ngày ở dưới
tức là ngày 21. Chữ Việt gồm chữ tẩu là chạy, hợp với chữ tuất là giờ Tuất, tức là giờ Tuất
thì chạy trốn”( Truyện Kiều Đối Chiếu).
Bùi Khánh Diễn thì: “ Tích Việt – dĩ chiết tự pháp phân hoạch thị trấp nhất
nhật tuất tẩu dã, có nghĩa là chữ
Tích Việt lấy phép chiết tự chia nét mà xem là ngày hai mươi mốt chạy lúc giờ
tuất”. Còn Bùi Kỷ lại giảng hơi khác một chút: “ xem trong tiểu thuyết thì chữ Tích Việt cắt nghĩa là: Trấp nhất nhật tuất thì việt tường tương
kiến, ngày 21 giờ tuất, trèo qua tường sang với nhau, chứ không phải là : trấp nhất nhật tuất thì tẩu, ngày 21
giờ tuất thì trốn. Vì lúc bấy giờ Kiều mới gặp Sở Khanh, sau cách hai ngày nữa
Sở Khanh mới rủ Kiều đi”.
Về chữ “ Tích - 昔” – theo cách chiết tự thành “ trấp – nhất – nhật ; 廾
一日” thì không có gì phải bàn cải.
Nhưng chữ “Việt - 越”
mà chiết tự thành “ tẩu” và “tuất” thì rõ ràng có vấn đề. Vì chữ
“ Việt
- 越” là hợp thành bởi hai
chữ “
tẩu -走 ” và “ việt -戉” ( một loại búa rìu thời xưa) chứ hoàn toàn không
phải là “ tẩu - 走”
và “ tuất
- 戌 ”. Còn nếu “ tẩu +
tuất” thì phải là chữ “ Huấn” – chữ này ít xuất hiện, thậm
chí trong các bộ từ điển của Thiều Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng…hay
các bộ từ điển tầm cỡ như Từ Nguyên, Từ Hải cũng không có ghi… Cụ thể là chữ "tẩu" cạnh chữ "tuất",
thì lại là một chữ khác, âm đọc " hứa duật, huân nhập thanh", tức
là chữ "huấn", và cũng có nghĩa là "chạy". Khang Hy Từ
Điển còn cho biết thêm : “ Huấn – dữ việt bất đồng” có nghĩa là chữ “huấn”
không phải là chữ “ việt ”…Tựu trung có thể nói vì hai chữ “ việt - 戉
” và “ tuất - 戌” tự dạng khá giống nhau nên mới xảy ra chuyện tác
đánh tộ, ngộ đánh quá của các nhà Kiều học ở trên đã chú giải mà thôi.
Nhưng vấn đề này ta thấy cả Kiều và Nguyễn Du đều
không hề nhầm lẫn. Vì Kiều nhận được thư của Sở Khanh, nàng đã đoán chữ “ việt”
chắc hàm ý là chữ “ tuất”, chính vì vậy mà Nguyễn Du mới dùng hai chữ “ phải chăng” để ngầm phỏng đoán trong câu
Kiều 1090:
Lấy
trong ý tứ mà suy
Ngày
hai mươi mốt tuất thì phải chăng ?”
Một vấn đề nữa cũng cần nói thêm nếu Sở Khanh hẹn Kiều
trốn đi vào giờ Tuất ( 19 giờ đến 21 giờ) ngày 21 âm lịch thì làm gì có trăng ?
Vậy tại sao lúc ấy Nguyễn Du lại tả trong câu 1091 – 1092 là:
Chim hôm thoi thót về rừng
Giá
trà my đã ngậm trăng nửa vành
Thư từ là vậy, nhưng thực tế lại là một chuyện khác.
Theo nguyên truyện thì : “ Nhưng rồi hôm
ấy, giữa lúc hoàng hôn, bỗng thấy Tú bà đem rượu và các món nhắm lên để cùng
Thúy Kiều chén thù chén tạc, và nói chuyện gẫu tới canh khuya mới thôi khiến
nàng vô cùng hoảng hốt. Sau khi đưa chân Tú bà ra khỏi thì vội đóng ngay cửa
lại rồi leo lên lầu, mở cánh cửa ra coi, đã thấy có cái đầu thang bắt ngay vào
phía cửa trước…đồng thời đã thấy một bóng người đương lần bậc thang leo lên rồi
vịn chấn song cửa sổ nhảy vào…”. Rõ ràng ngay hôm ấy Sở Khanh đã đến trễ
vào tận lúc khuya chứ không phải là giờ Tuất như đã hẹn. Và khi đến nơi thì hắn
cũng không rủ Kiều đi trốn, mà tìm cách cùng nàng chăn gối : “ Vừa nói chàng lại nhích lại bên nàng rồi lại
nói tiếp: - Đáng yêu thay cái đêm tốt đẹp, ta đã cùng nhau gặp gỡ, nhẽ nào để
nó trôi qua. Huống chi ta đang định kế để giải thoát nàng, nhẽ đâu nàng không
có chút gì để tạ ơn trước? Thúy Kiều đáp: - Đã đành rằng thế, nhưng tấm thân
này còn sống, xin hãy đợi ngày khác lo gì. Sở Khanh rằng: - Hôm nay công việc
tiến hành buổi mới, ví không có sự hoàn hảo, chỉ e bất lợi cho việc sau này.
Thúy Kiều lúc ấy cũng muốn cố kết lòng chàng, để chàng tận tâm cứu vớt, vả lại
nàng tự xét thấy: Thân này trót đã, còn đâu như lúc ngày xưa? Nên cũng tỏ lòng
ưng thuận: - Mong chàng ra tay cứu vớt, đâu dám tiếc sự gối chăn, miễn sau thủy
chung như một, đừng để thiếp phải mang hận, ngâm khúc bạch đầu…”( Tô Nam-
Nguyễn Đình Diệm, dịch).
Ngày hôm sau nữa Sở Khanh mới đến và rủ Kiều cùng đi
trốn, Kiều thấy mưu kế ấy thật là việc mạo hiểm nhưng vì nàng đã trót trao thân
cho y thì đành phó thác, từ chối cũng không thể. Vấn đề này Nguyễn Du đã nói
một cách hết sức tế nhị trong câu 1013 -1016:
Nghe
lời nàng đã sinh nghi
Song
đà quá đỗi quản gì được thân
Cũng
liều nhắm mắt đưa chân
Mà
xem con tạo xoay vần đến đâu
Và họ ra đi: “ Lúc
ấy đương tuần tháng chín, thuộc tiết sương giáng cuối thu, người thấy lạnh
buốt, trăng cũng lu mờ” ( Tô Nam – Nguyễn Đình Diệm, dịch). Trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du cũng viết những câu áo não:
Đêm
thu khắc lậu canh tàn
Gió
cây trút lá trăng ngàn ngậm gương
Lối
mòn cỏ lợt màu sương
Lòng
quê đi một bước đường một xa
( câu 1121 - câu1124)
Qua những nội dung đã nói ở trên, ta
thấy mục đích của Sở Khanh là lập mưu đưa nàng đi trốn nhưng thực tế lại là tìm
cách ân ái chăn gối với nàng, sau đó thông đồng với bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh bắt
lại nàng, hành hạ nàng để ép nàng phải tiếp khách cho bằng được. Chính vì lẽ đó
mà hai chữ “ Tích Việt” trong thư đã đánh lận con đen ngay từ lúc ban đầu.
Bản thân nó mù mờ, thật giả khó phân, cũng như “ việt” làm thì sao bắt “ tuất”
chịu trách nhiệm được ! Trong Truyện Kiều có rất nhiều tiên ảnh ( hình ảnh phía
trước) để đoán cho sự việc phía sau, trước một biến cố của cuộc đời nhân vật
bao giờ cũng có những dự báo ngầm trước. Hai chữ “ Tích Việt” không những
lừa người đi trước mà còn che mắt người đi sau ! Các nhà Kiều học có công chiết
tự “ Tích
Việt” nhưng vô tình lại không phát hiện sự nhầm lẫn trong đó. Và sự
nhầm lẫn đó lại là một điều thú vị cho việc giải mã tính dự báo cho tình huống
truyện. Vì thư đề ngày 21 giờ Tuất, nhưng Sở Khanh đã đến Lầu Ngưng Bích vào
lúc “ nửa đêm” trăng đã lên. Và lần
Sở Khanh đưa Kiều đi trốn hai ngày sau đó cũng vào lúc “ nửa đêm” trăng mờ gần sáng. Chính vì vậy mới xẩy ra cảnh thương tâm.
Thịt da ai
cũng là người
Lòng nào hồng
rụng thắm rời chẳng đau
( Câu 1137 – 1138)
Và còn gì tủi nhục hơn với thân phận Kiều:
Thân lươn bao
quản lấm đầu
Chút lòng
trinh bạch từ sau xin chừa
( Câu 1147 – 1148)
ĐÀO THÁI SƠN