NÊN DẠY VĂN THEO HƯỚNG THI
PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI
Trong những năm gần đây,
trên các tạp chí văn học nghệ thuật có đăng tải những bài lý luận phê bình mang
tính chất của thi pháp học. Điều đó thật đáng mừng vì những tác giả, tác phẩm văn chương xưa cũng như nay
được bắt đầu khám phá, nhìn nhận lại ở những góc độ mới, mang tính khoa học và
toàn diện hơn. Vấn đề này phần nào giúp cho người sáng tác trẻ ý thức hơn trong
định hướng sáng tác, sáng tạo nghệ thuật, giúp độc giả có điều kiện thưởng thức
tác phẩm một cách sâu sắc hơn. Và phần nào tác động đến vấn đề dạy và học văn
trong các trường phổ thông, học hứng thú và dạy không nhàm chán. Nhưng trong thực
tế hiện nay người nghiên cứu về thi pháp học ở các địa phương chưa nhiều, tài
liệu nghiên cứu còn hạn chế, nên bộ môn này chưa thể đến với mọi người một cách
rộng rãi được. Trong bài viết ngắn này chúng tôi xin sơ lược một số vấn đề về
thi pháp học và những điểm độc đáo của nó mong giúp bạn đọc có cái nhìn khái
quát nhất cũng như làm cơ sở để tiếp nhận văn học mang tính khoa học, lý thú
hơn – Thi pháp học hiện đại.
Thi pháp học thực tế
không phải là mới mẻ mà nó đã có từ thời
Arixtốt và được phát triển, biến tướng qua nhiều thế kỷ dưới nhiều dạng thức
khác nhau, nhưng vì có cả một thời gian dài
hằng bao thế kỷ bị bỏ quên mà có lúc người ta cảm thấy xa lạ với nó, mãi đến thế kỷ XIX nó mới được giới học giả
quan tâm trở lại và Vôxôlốpxki được xem là người tiên phong mở ra một hướng mới
cho thi pháp. Vào tận những năm 20 của thế kỷ XX thì thi pháp học mới phát
triển lại một cách mạnh mẽ ở Liên Xô với những tên tuổi lẫy lừng như Vichto
Sôlốpxki, V.Êykhonbam và dần tới những năm 60 thì thi pháp học mới thực sự ảnh hưởng sâu rộng trong giới văn học Phương
Tây. Ở Việt Nam, với những công trình nghiên
cứu của PGS. Tiến sỹ Trần Đình Sử như Thi pháp thơ Tố Hữu ( 1987), Những thế
giới nghệ thuật thơ ( 1995),Thi pháp Truyện Kiều ( 2002)…đã làm chấn động giới
nghiên cứu, tạo nên một cơn sốt nghiên cứu thi pháp học cho đến tận ngày nay.
Nếu xưa nay chúng ta
quen với cách khám phá các tác phẩm nghệ thuật theo lối truyền thống như giới
thiệu, cảm nhận , đánh giá , phân tích các yếu tố nghệ thuật riêng lẻ thì ở thi
pháp học hiện đại có cái nhìn và cách khám phá hoàn chỉnh, cụ thể và cách tiếp
cận văn chương với quy luật phổ quát hơn dưới sự tổ chức hình thức mang tính
nội dung của sáng tác văn học. Nếu nói rằng văn học là một hình thái ý thức xã
hội, tác phẩm văn học là một hiện tượng ngôn ngữ, thì thi pháp là một hệ thống
nghệ thuật của một hiện tượng văn học và thi pháp học là bộ môn khoa học nghiên
cứu về hệ thống nghệ thuật đó. Chính vì vậy đối tượng của thi pháp học không
phải là hình thức mang tính cấu trúc, quan điểm ngôn ngữ mà là hình thức mang
tính nội dung. Tức là cuộc sống được ý thức và sự tự ý thức về cuộc sống thông qua
hình thức nghệ thuật. Vì vậy khi khám phá tác phẩm văn học dưới góc độ thi pháp
ta sẽ thấy rằng hình thức nghệ thuật luôn gắn với tính hệ thống, tính quan niệm
và tính chất tinh thần. Hoàn toàn không mang tính riêng lẻ. Cũng chính vì vậy
mà tác phẩm văn học được soi rọi sẽ hiện hữu khả năng phản ánh đời sống của một
hình thức nghệ thuật được sự giới hạn và chiều sâu ở từng góc độ thẩm mỹ của
nó. Bên cạnh đó nó còn giúp ta thấy được sự vận động và phát triển của tư duy,
tính xác định của nội dung tác phẩm. Từ đó nâng cao khả năng cảm thụ cho người
đọc với tác phẩm văn học được khám phá.
Chúng ta đã biết bản
chất của văn học là phản ánh đời sống bằng hình tượng, chính vì vậy mà hình
tượng nghệ thuật là linh hồn của tác phẩm văn học nghệ thuật. Nghệ thuật khẳng
định vẻ đẹp tâm hồn con người, do đó nghiên cứu tác phẩm văn học là nghiên cứu
thế giới tinh thần do con người sáng tạo ra và đó cũng chính là hình thức tồn
tại của tác phẩm nghệ thuật. Cho nên khi nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc
độ thi pháp sẽ giúp chúng ta tránh được và hạn chế được việc chia tách tác phẩm
theo cấu trúc văn bản để nghiên cứu mà phải nhìn một cách vừa cụ thể vừa tổng
quát về hình tượng nghệ thuật ở từng mảng của nó, chẳng hạn như
quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật,
màu sắc nghệ thuật, hình tượng tác giả trong tác phẩm…. Chẳng hạn khi tìm hiểu
con người trong văn học Việt Nam
hiện đại ta sẽ thấy mỗi tác giả có cách quan niệm riêng về con người trong tác
phẩm của mình. Con người trong tác phẩm của Ngô Tất Tố có hai dạng con người là con người oan trái (
nhưng rất đẹp ) và con người tạo ra oan trái.
Con người trong tác phẩm Nam Cao là con người bán dần sự sống để duy trì
sự sống vì vậy mà con người trong tác phẩm của Nam Cao luôn có ý thức về tâm
trạng. Và nó sẽ khác hoàn toàn với con người vũ trụ, con người chí khí, con người tỏ lòng…trong văn học
trung đại. Như ai cũng biết Kiều bị bán vào lầu xanh chịu bao tủi nhục ê chề.
Nhưng khi Từ Hải xuất hiện cứu nàng thì cái
“ lầu xanh” ấy lập tức biến thành “lầu hồng”. Vì màu hồng có cảm giác
đem lại sự hạnh phúc ấm áp cho con người và người con gái kia vẫn là một con
người danh giá trong tâm khảm tác giả. Ngược lại màu trắng sẽ biểu hiện đầy đủ
sự tang tóc thê lương, lạnh lẽo và cả sự trong trắng của linh hồn người trinh nữ.
Sáng nay vô
số lá vàng rơi
Người gái
trinh kia đã chết rồi
Có một chiếc
xe màu trắng đục
Hai con ngựa
trắng xếp hàng đôi
Đem đi một
chiếc quan tài trắng
Và những
bông hoa trắng lạnh người
Theo bước
những người khăn áo trắng
Khóc hồn
trinh trắng mãi không thôi.
Viếng
hồn trinh nữ – Nguyễn Bính
Bên cạnh những vấn đề
trên, dưới góc nhìn thi pháp ta còn có
cách nhìn chi tiết hơn ở các khía cạnh như cốt truyện, tình tiết truyện, kết
cấu, thi pháp thể loại, thi pháp ngôn ngữ trong tác phẩm văn học một cách hoàn
thiện hơn. Nếu nói tinh thần thi pháp tập trung ở bốn vấn đề chính là quan niệm nghệ thuật về con người,
thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật và hình tượng tác giả trong sáng
tạo nghệ thuật thì hai trong bốn
vấn đề mang tính cốt lõi nhất, tập trung phản ánh trong sáng tạo nghệ thuật
nhất của mỗi tác phẩm đó chính là thời gian và không gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật là
chính là một hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật.
Nó chính là một phương tiện để phản ánh đời sống và nó được rong ruổi ngược
xuôi, đảo chiều một cách tự do, không
hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian vật lý. Nó luôn đóng vai trò là hình thức tồn
tại, hình thức triển khai hành động , cảm thụ trong tác phẩm nghệ thuật. Trong
thời gian nghệ thuật luôn tồn tại hai lớp là thời gian trần thuật và thời gian
được trần thuật. Trong thời gian trần thuật lại bao gồm nhiều thời gian khác
nhau như thời gian nhân vật, thời gian tâm lý, thời gian tập thể, thời gian
lịch sử, thời gian sự kiện… các thời gian này đi cùng với các chiều ( quá khứ –
Tương lai – hiện tại )để tạo nên cấu trúc thời gian hoàn chỉnh cho mỗi tác phẩm
văn học. Ta thử đọc đoạn thơ sau của Nguyễn Văn Tài.
Không còn
trẻ để cùng hoa phượng vỹ
Và cùng em
trầm lặng dưới sân trường
Mùa hạ
thoáng ngậm ngùi trong ý nghĩ
Dặm đường
đời em có vẹn yêu thương ?
Trích Đường
tim – Nguyễn Văn Tài
Bốn
câu thơ mang một chuỗi thời gian tâm trạng, đứng ở cái thời gian “ không
còn trẻ ” để nhìn một dấu ấn kỷ niệm “ hoa phượng vỹ”
và lui dần về quá khứ “cùng em trầm lặng dưới sân trường” rồi lại
trở về hiện tại mùa hạ…ngậm ngùi và ý nghĩ trôi dần vào một tương lai nào đó
đầy sự lo lắng pha chút trách hờn “Dặm đường đời em có vẹn yêu thương”.
Một đoạn thơ ngắn nhưng có sự tổ chức thời gian tâm lý để làm nổi bật tâm trạng
của nhân vật trữ tình , đưa người thưởng thức trôi theo mạch, nhịp của thời
gian phiêu bồng lãng đãng vốn dĩ của dòng đời đầy bất trắc.
Cùng
với thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật chính là cái mô hình nghệ
thuật về cái thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí và số phận
của mình trong đó. Và chính nó bao giờ cũng đi cùng với cảm xúc và ý
nghĩa nhân sinh.
Không
gian nghệ thuật không phải là không gian vật chất mà chủ yếu là không gian của
tinh thần, không gian của tâm tưởng, cảm xúc, ước vọng, hồi tưởng… và nó cũng
có nhiều lớp như không gian vũ trụ, không gian xã hội, không gian địa lý, không
gian con người ( không gian cư ngụ và không gian tâm tưởng ). Tất cả những vấn
đề của không gian nghệ thuật ta thấy nó thể hiện rất rõ trong các thể loại văn
học. Thần thoại luôn gắn với không gian định tính, cổ tích gắn với không gian
không cản trở, thơ cổ điển gắn với không gian vị trí… Có điều khác với thời gian,
không gian nghệ thuật còn bị chi phối rất nhiều bởi tính dân tộc, tâm lý dân
tộc. Chẳng hạn ta thấy rất cụ thể cái hồn tính đó trong hai câu thơ trong bài
Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Nhớ nước đau lòng con
cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái
đa đa
Người
Việt thường rất ngại đi xa vì nơi chốn nhau cắt rốn chính là nơi sống ở thác về
của mỗi con người, nơi đó có tất cả những gì quý báu nhất của tâm hồn. Cũng vì
lẽ đó mà chuyến vào Nam
nhậm chức Cung trung giáo tập là một việc hết sức khó khăn nhưng không thể từ
chối được. Qua Đèo Ngang, một không gian quạnh quẽ hoang sơ dễ làm cho con
người cảm thấy cô độc, chạnh lòng mà nhớ thương da diết. Tiếng chim cuốc, chim
đa đa kêu chiều là tiếng gọi bầy lẻ bạn của đôi lứa sau một ngày đi
kiếm ăn, đó cũng là tiếng lòng
kín đáo của người phụ nữ đi xa nhớ nhà nhớ chồng ở nơi xứ lạ quê người. Cái
không gian địa lý tràn ngập trong không gian tâm tưởng, không gian tâm tưởng
chan hòa bất tận vào không gian vị trí của con người.
Văn
học hiện đại có sự liên kết thời gian
hết sức phong phú và đa chiều để phản ánh thực tại xã hội cũng như những ước mơ
hoài vọng của con người cần vươn tới.
Nhìn cá ngáp trong vuông
đầy nước
Ta giang hồ đâu phải dễ
ngươi
Em hữu hạn lụa là son
phấn
Bùa nào thiêng buộc được
chân người ?
Trích Nắng qua
lăng kính – Khaly Chàm
Vấn đề thi pháp học là
một vấn đề lớn không phải trong vài bài viết mà nói hết được. Nhưng ngày nay,
có thể nói đây là một trong những món ăn tinh thần thời thượng. Nó rất cần
thiết trong việc nghiên cứu cũng như giảng dạy văn học trong nhà trường. Nó
giúp chúng ta khám phá một cách chính xác các cấu trúc hình thức mang tính nội
dung của tác phẩm văn học, phục vụ cho việc tìm hiểu nội dung tác phẩm một cách
đích thực, hoàn toàn không có sự gán ghép hoặc cảm nhận thiếu cơ sở. Bên cạnh
đó nó còn giúp chúng ta hiểu đủ, hiểu đúng các tác phẩm văn chương trong quá
trình phát triển tư duy nghệ thuật, đánh giá đúng tư duy nghệ thuật của mỗi tác
phẩm văn chương và hình tượng tác giả. Nhưng không sa vào hình thức chủ nghĩa.
ĐÀO THÁI SƠN
PHỤ BẢN : MÀU
HỒNG XUNG QUANH CÔ KIỀU CỦA NGUYỄN DU.
Trong tác phẩm văn học,
màu sắc không chỉ là phương tiện để miêu tả thế giới mà nó còn biểu thị cái
nhìn của tác giả với cuộc đời nhân vật, thể hiện cá tính, thời đại và được xem
như là một sáng tạo độc đáo. Khám phá nhân vật Kiều, ta thấy Nguyễn Du sử dụng
gam màu hồng như là một màu sắc chủ đạo để thể hiện dụng ý nghệ thuật của riêng
mình.
Nếu trong Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có khoảng 106 lần sử dụng màu sắc chiếm tỉ lệ
0,1% trong tổng số chữ thì ở Nguyễn Du chiếm đến 0,52% ( 119/22778 chữ). Điều
đó để thấy Nguyễn Du sử dụng từ chỉ màu sắc một cách hết sức phong phú. Và màu
sắc ở đây không chỉ đơn thuần là miêu tả tự nhiên mà còn là một dụng ý tạo tác
các hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa khái quát, giàu giá trị nghệ thuật, nhân
văn cao cả.
Trong Truyện Kiều, sau
trước cô Kiều luôn được tác giả phủ cho một màu hồng. Lần đầu tiên Kim Trọng
gặp Kiều thì nàng là một “ Bóng hồng nhác thấy nẻo xa / Xuân lan thu
cúc mặn mà cả hai”. Màu hồng này được coi như là một ước lệ, vì người
phụ nữ xưa thường mặc váy hồng. Nhưng đến khi chàng Kim về nhà trọ và tương tư
nàng Kiều thì bóng hồng ấy đã trở thành một ám ảnh “ Tấc gang động khóa nguồn phong /
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra”. Và trong lúc mơ tưởng, giấc chiêm
bao thì Kiều vẫn là một bóng hồng trong tim Kim Trọng “ Mây Tần khóa kín song the
/ Bụi
hồng liệu nẻo đi về chiêm bao”. Rồi sau 15 năm lưu lạc, bóng hồng ấy
vẫn in đậm trong tâm trí chàng, sau khi Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường để
tự vẫn, Kim lập đàn chay cúng tế nàng thì Kiều vẫn là một bóng hồng như thuở
nào hai người gặp gỡ “ Ngọn triều non bạc trùng trùng / Vời trông
còn thấy cánh hồng lúc gieo”. Vấn đề này cho ta thấy Nguyễn Du đã thoát
khỏi cái quy ước “ hồng quần” chỉ phụ nữ nói chung của văn học cổ, màu hồng ở
đây được tạo ra bằng một phong cách nghệ thuật mới mẻ, đầy sức gợi cảm. Cũng
như trong lòng Kim Trọng, Kiều bao giờ cũng đẹp và tinh khôi như thuở ban đầu
cho dù thời gian đã muôn trùng xa cách.
Khi Kiều rơi vào lầu
xanh, nàng bị Tú Bà đánh đập hành hạ thì tác giả vẫn miêu tả nỗi đau đớn của
nàng trong cái đẹp của màu hồng “ Hóa nhi thật có nỡ lòng / Làm chi giày tía
vò hồng lắm nao” hay sự cảm thông trong muôn vàn đau đớn “ Thịt
da ai cũng là người / Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau”. Màu hồng
đã chuyển dần từ sự biểu trưng sắc đẹp sang sự sống của nhân vật. Rồi khi Kiều
khóc trong hoàn cảnh xa nhà thì Nguyễn Du đã miêu tả những giọt nước mắt ấy như
là những giọt máu hồng “ Nhìn càng lả chã giọt hồng / Rỉ tai nàng mới
tỏ lòng thấp cao”. Khi Kiều trao duyên cho Thúy Vân rồi đau khổ ngất đi
thì “ Kẻ thang người thuốc bời bời / Mới dầu cơn vựng chưa phai giọt hồng”….Khi
Kiều cảm thấy xấu hổ trước bài học của Tú Bà truyền cho để chiều lòng khách
làng chơi thì nàng “ Dường chau vẻ ngọc dường phai vẻ hồng”…Trong
cái không gian lầu xanh đầy tê tái ấy, màu hồng như vô tình sưởi ấm cho nàng,
làm dịu bớt đi cái cảnh ngộ cô đơn ê chề trong đau khổ. Cái danh thiếp của
chàng Thúc gửi đến cho nàng cũng có màu hồng “ Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi /
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào”. Đó là cái màu hồng của bàn tay
cứu vớt. Nhưng rồi bất chợt đến khi Từ Hải xuất hiện thì cái lầu xanh rùng rợn
ấy mới thực sự chuyển thành cái lầu hồng “ Thiếp danh đưa đến lầu hồng / Hai bên cùng
liếc hai lòng cùng ưa”. Đó là cái ưa của những kẻ tài hoa đỉnh ngộ, đó
là màu hồng của hạnh phúc, của sự mừng rỡ, màu hồng của sự giải thoát….Thậm chí
cái trác quan sai đi bắt Kiều về tra hỏi cũng có màu hồng “ Phủ
đường sai lá phiếu hồng thôi tra”.
Có thể nói theo quan
niệm mỹ học của Phương Đông, màu hồng là màu của cái duyên dáng thiếu nữ, là
màu của sự ấm áp, của niềm vui, hạnh phúc. Hồng là màu trừ khử những cái hắc
ám, tà ma. Nguyễn Du phủ quanh đời Kiều cái màu hồng ấy như là một màu sắc của
tinh thần nhân đạo, của niềm tin vào tương lai nhân vật, của sự sống vươn lên
và vượt qua mọi tai ách. Qua đó ta thấy tư tưởng tác giả và thái độ đối với
nhân vật, với thời đại thông qua việc sử dụng màu sắc như một phương tiện và cứu
cánh để đi đến chân – thiện mỹ.
ĐÀO THÁI SƠN
ĐÀO
THÁI SƠN – TRƯỜNG THCS SUỐI DÂY – HUYỆN TÂN CHÂU – TỈNH TÂY NINH
01647240496