DẠY VĂN - HỌC VĂN 7: TRỊNH HOÀI ĐỨC VÀ BÀI THƠ CỔ NHẤT VIẾT VỀ XỨ TÂY NINH - ĐÀO THÁI SƠN
TRỊNH HOÀI ĐỨC VÀ BÀI THƠ CỔ NHẤT VIẾT VỀ XỨ TÂY NINH
Nói đến Gia Định Tam Gia thì không thể không nhắc đến
Trịnh Hoài Đức. Ông là một trong những người học trò xuất sắc nhất của danh sư
Võ Trường Toản. Trịnh Hoài Đức ( 1765-1825), tự là Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, tổ
tiên xa là người Phúc Kiến sang ngụ ở Phú Xuân, sau mời di dời vào Trấn Biên –
Đồng Nai sinh sống. Cha mất sớm, ông được mẹ nuôi dạy từ nhỏ và cơ may được thụ
giáo với thầy Võ Trường Toản, một nhà nho nổi tiếng ở đất Gia Định lúc bấy giờ.
Khi quân Tây Sơn vào Nam Bộ, ông không tham gia mà chạy sang Chân Lạp,
Campuchia lánh nạn. Chính những năm sống cùng dân tộc này mà ông có cái nhìn
đầy thiện cảm được bộc lộ trong thơ ca mà sẽ nói ở phần sau.
Năm 1788, sau khi đánh lấy được Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho
mở khoa thi để chọn người giúp việc. Trịnh Hoài Đức đỗ khoa ấy, được bổ làm Hàn
lâm chế cáo. Đến năm 1789,
ông được bổ làm Tri huyện ở Tân Bình, rồi được kiêm làm Điền toán trông coi
việc khai khẩn đất đai ở Gia Định. Năm 1793, ông lãnh chức
Đông Cung Thị Giảng. Tháng 11 năm đó, ông được cử theo Nguyễn Phúc Cảnh ra giữ thành Diên Khánh. Năm 1794, ông được thăng
làm ký lục dinh Trấn Dinh, rồi được bổ làm Hộ bộ Hữu Tham tri. Năm 1801, khi chúa Nguyễn
mang quân ra đánh lấy Phú Xuân, Trịnh Hoài Đức lo việc gặt hái ở Quảng
Nam và Quảng
Ngãi để tiếp vận quân lương . Tháng
5 năm 1802
chúa Nguyễn lên ngôi ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long.
Sau đó, ông được phong làm Thượng thư bộ Hộ,
đồng thời sung làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Cùng đi với ông hai Phó sứ là
Hữu Tham tri bộ Binh Ngô Nhân Tịnh và Hữu Tham tri bộ
Hình Hoàng Ngọc Uẩn . Năm 1808, ông được bổ làm
Hiệp trấn Gia Định Thành, phụ tá cho Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn. Năm 1812, ông được bổ
nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1813 lại đổi
làm Lại bộ Thượng thư. Năm 1816 ông lại được
bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Sau khi, Tổng trấn Nhơn
về kinh, ông tạm giữ quyền Tổng trấn (1820). Đầu năm 1820, vua Minh
Mạng lên nối ngôi. Sau đó, nhà vua cho triệu ông về kinh làm Lại bộ
Thượng thư như trước, lại kiêm cả Binh bộ Thượng thư, đồng thời sung chức Phó
Tổng tài Quốc sử giám, thăng Hiệp biện Học sĩ. Tháng
9 năm 1821,
nhà vua ngự giá ra Bắc, ông được đi theo. Khi về, ông dâng lên vua hai quyển
là Lịch đại kỷ nguyên và Khang tế lục. Năm 1822, ông được cử làm
Giám khảo kỳ thi ân khoa. Năm 1823, thấy mình già yếu, ông dâng sớ xin từ quan. Vua Minh
Mạng sai đại thần Phạm Đăng Hưng đến thăm và lưu ở lại, ông đành
phải xin về nghỉ dưỡng 3 tháng. Mãn hạn nghỉ phép, ông trở ra Huế, nhà vua ban
cho ông hai ngàn quan tiền và vật liệu để ông làm nhà ở phía cửa Đông ngoài
thành. Tháng
2 năm 1825,
Trịnh Hoài Đức mất vì bệnh tại Huế, thọ 61 tuổi. Cả cuộc đời ông hầu hết cống
hiến cho nhà Nguyễn, tuy làm quan to, giữ nhiều trọng trách của quốc gia, nhưng
ông luôn một mực liêm chính, một lòng yêu thương nhân dân, toàn tâm phụng sự
đất nước.
Có thể nói trong cuộc đời làm quan của ông thì giai
đoạn ông sống và làm việc tại đất Gia Định là quan trọng nhất. Chính đất nước
và con người nơi đây đã giúp ông cho ra đời bộ sách có một không hai Gia Định
Thành Thông Chí. Đây là bộ sách biên khảo công phu về quá trình hình thành, đất
đai, sông núi, cửa biển, phong tục, sản vật và con người ở vùng đất Gia Định
xưa. Ngoài ra ông còn để lại cho đời bộ Cấn Trai Thi Tập nổi tiếng, đây là tập
thơ được ông sáng tác từ năm 1783 đến
năm 1819. Thơ Trịnh Hoài Đức rất gần gũi với cuộc sống, đó là cảnh sinh hoạt
của nhân dân nơi ông ở và đi qua, đó là cảnh đẹp gắn với người dân cày, chài
lưới, săn bắn, làm nông tang…tất cả đều khỏe khoắn và đầy thiện cảm. Điều đặc
biệt là lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam lại xuất hiện hình ảnh đất nước và
con người Chân Lạp. Ông còn nói đến tình thân một nhà của hai dân tộc Việt –
Cao Miên, mà tiêu biểu nhất là bài Quang
Hóa Hồ Già của ông. Cho đến nay có thể xem đây là bài thơ cổ nhất viết về
vùng đất Tây Ninh xa xưa. Nguyên văn bài thơ như sau:
Quang Hóa tây
tuần tuyệt lỗ trần,
Nhất gia Hồ
Việt lưỡng tương thân,
Hồ gia thanh
khởi thu vân yết,
Cửu thú sầu
tùy tái thảo tân,
Lý tướng ai
ngâm đồng nhập điệu,
Minh phi oán
khúc nhược lưu than,
Đương niên
hảo kiến y thường hội,
Triệu phẫu
Tần tranh công tác tân.
Tạm
dịch nghĩa:
Tiếng
kèn Hồ ở Quang Hóa
Quang
Hóa đi tuần về phía tây, sạch bụi giặc (Xiêm),
Miên
Việt hai bên thân nhau như một nhà,
Tiếng
kèn Hồ thổi lên làm đám mây thu ngừng lại,
Người
đi lính thú lâu ngày, sầu theo cỏ mới ở cửa ải,
Cùng
nhập điệu với tiếng ngâm buồn của Lý Quảng,
Có
cái thần của khúc đàn ai oán của Chiêu Quân,
Năm
xưa nếu gặp hội áo xiêm,
Thì
kèn này cùng với chậu gõ của nước Triệu, đàn tranh của nước Tần cũng được mời
làm tân khách.
Hồ già là một loại kèn mà các từ điển như của Thiều
Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng đều thống nhất ghi nghĩa là cái kèn lá,
lấy lá cuốn lại làm kèn, gọi là hồ già. Người Chân Lạp xưa kia thường thổi kèn
này. Trong chuyến đi tuần về phía tây, tác giả đã nghe tiếng hồ già ở đất Quang
Hóa ( Tây Ninh) cất lên, một nơi biên ải xưa kia mà cảm xúc nên thơ.
Cái nhìn đầy thiện cảm đầu tiên khi đến vùng đất này
là giặc dã đã được dẹp yên, hai dân tộc Việt – Miên hòa thuận như sống chung
một nhà. Nhưng cái ấn tượng thâm trầm nhất là hình ảnh người lính thú với tiếng
kèn u buồn bên cửa ải, một tâm trạng đầy sự cảm thông “ Hồ già thanh khởi thu vân yết /
Cửu thú sầu tùy tái thảo tân” – có nghĩa là tiếng kèn thổi lên làm cho
đám mây thu ngừng trôi, người lính thú lâu năm nhìn những ngọn cỏ mới xanh trên
cửa ải mà lòng cảm thấy buồn. Hình ảnh đám mây là lấy từ tích cũ Địch Nhân Kiệt
đời Đường với câu “ dưới đám mây ấy là nhà ta”, ý nói tâm trạng nhớ nhà của
người lính. Hình ảnh đám cỏ mới là sự trông đợi mỏi mòn ngày về. Vì lính thú
thời xưa thường thay đổi theo chu kỳ mùa thu - hoàng hoa thú, nhìn đám cỏ xanh
đã bao mùa héo úa không biết đến khi nào mới được trở lại quê hương.
Tiếng kèn ấy còn gợi lên những nhân vật trong các điển
cố xa xưa, nhưng lại ca ngợi con người hiện tại “Lý tướng ai ngâm đồng nhập điệu /
Minh phi oán khúc nhược lưu than”.
Lý tướng tức là Lý Quảng là một nhân vật, một tướng quân đời Hán trấn giữ biên
giới giữa đất Hán và Hung Nô, nhưng vì phạm sai sót nên phải tự vẫn để đảm bảo
quân kỷ quốc gia. Còn Minh phi là Vương Chiêu Quân là một mỹ nhân đời Hán đem
cống cho Hung Nô để đổi lấy bình yên cho đất Hán. Hai câu thơ này tác giả mượn
tiếng kèn để ca ngợi, biết ơn những người vì hòa bình của đất nước mà sẵn sàng
hi sinh mạng sống cũng như cuộc đời của mình.
Đặc biệt ở hai câu cuối tác giả có nhắc đến “ Triệu
phẫu Tần tranh – cái chậu và cây đàn tranh của nước Triệu, Tần – để ca ngợi
tinh thần người lính thú cũng như danh dự của quốc gia. Đó là tích nói đến tích
Lạn Tương Như phò vua Triệu hội kiến vua Tần. Chuyện là “Năm 282 TCN vua Tần cử binh đánh Triệu, lấy Thạch Thành. Năm sau, Tần
lại đánh Triệu, giết hai vạn người. Vua Tần sai sứ giả nói với Triệu Huệ Văn
Vương muốn họp nhau ở Dẫn Trì, ngoài Tây Hà để giảng hoà. Vua Triệu lo lắng,
định không đi. Võ tướng Liêm Pha cùng Lạn Tương Như bàn rằng nếu vua Triệu
không đi thì tỏ ra nước Triệu yếu và nhát. Vua Triệu bèn quyết định đi, cho
Tương Như đi theo. Hai bên hội họp ở Dẫn Trì. Tần Chiêu Tương vương uống rượu
say, nói: Quả nhân trộm nghĩ Triệu Vương giỏi nhạc, xin gảy đàn sắt cho nghe.
Vua Triệu bèn cầm đàn đàn sắt gảy. Ngự sử nước Tần tiến lên chép: Ngày...
tháng... năm... vua Tần cùng vua Triệu hội họp uống rượu, sai khiến vua Triệu
gảy đàn sắt! Vua quan nước Tần cố ý hạ thấp nước Triệu. Tương Như bèn nghĩ kế
trả đũa. Ông tiến lên nói: Vua Triệu trộm nghe nói vua Tần giỏi về âm nhạc nước
Tần, xin bưng cái phẫu đến vua Tần gõ để
cùng vui với nhau! Vua Tần giận không chịu. Nhưng Tương Như cứ tiến lên dâng
cái vùa. Nhân quỳ xuống mời vua Tần, vua Tần không chịu gõ. Tương Như cứng cỏi
nói:Ở trong năm bước, thần xin được phép lấy máu ở cổ làm bẩn người đại vương!
Các hộ vệ của vua Tần muốn chém Tương Như. Ông trợn mắt quát khiến tả hữu đều
dạt ra. Vua Tần không vui, đành miễn cưỡng gõ vùa một cái vào phẫu. Tương Như
quay lại gọi ngự sử nước Triệu viết: Năm... tháng.... ngày... vua Tần gõ phẫu
cho vua Triệu nghe! Quần thần nước Tần nói: Xin đem 15 thành nước Triệu để chúc
thọ vua Tần. Lạn Tương Như cũng nói: Xin lấy Hàm Dương của Tần cho nước Triệu
để chúc thọ vua Triệu. Vua Tần xong tiệc rượu, không tranh hơn được với vua
Triệu. Nước Triệu cũng đặt sẵn nhiều quân lính để đợi Tần nên quân Tần không
dám cử động”. Vậy qua hai câu thơ
cuối của bài thơ ta thấy tác giả dùng điển tích này để ca ngợi tiếng kèn cũng
có thể đem lại danh dự cho đất nước cho dân tộc Việt cũng như người Lạn Tương
Như dùng kế gõ chậu để lấy lại sỹ diện cho vua Triệu khi bị vua Tần sỹ nhục
bằng cách kêu đánh đàn tranh.
Có thể nói Quang
Hóa hồ già là bài thơ khá độc đáo và đầy cảm xúc của Trịnh Hoài Đức. Đó là
tiếng kèn lá của người lính thổi ở đất biên ải Quang Hóa vào những năm đầu của
thế kỷ XIX. Tiếng kèn làm cho hai dân tộc Miên – Việt chung sống thuận hòa,
tiếng kèn gợi nhớ quê nhà và mong đợi ngày về của người lính thú, tiếng kèn ca
ngợi và biết ơn những người vì đất nước sẵn sàng hi sinh thân mình, qua đó
tiếng kèn khẳng định vị thế của quốc gia dân tộc.
Trịnh Hoài Đức là một danh sỹ của đất Nam Bộ, ngoài
việc cống hiến về mặt chính trị cho triều Nguyễn ông còn cống hiến rất nhiều về
mặt văn hóa cho đất nước con người nơi đây. Ông là một con người nặng tình với
gia đình, với quê hương đất nước, ông luôn có cái nhìn đầy thiện cảm từ trái
tim đầy sự cảm thông với thân phận của những con người nhỏ bé. Ông đã đóng góp
cho nền văn học Việt Nam một cách đáng kể và đã đưa vào nền văn học ấy một số
sắc thái địa phương, đặt biệt là tình hữu nghị của hai dân tộc Việt – Miên ở
giai đoạn đầu của thế kỷ XIX. Đó cũng là điểm khác biệt giữa thơ của ông với
những danh sỹ đương thời.
ĐÀO THÁI SƠN